Luyện Tập " Vẫy Tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh"



Bài 1. Tác dụng kì diệu sau 20 năm vẩy tay

Đầu năm 1991, khi về nghỉ hưu, mới tròn 60 tuổi tôi đã có nhiều bệnh mạn tính: Huyết áp cao, viêm đại tràng, viêm họng hạt, trĩ nội…
Huyết áp có khi lên tới 160/100. Trĩ gây chảy máu liên tục có chu kì kéo dài cả nửa tháng. Viêm đại tràng luôn làm bụng quặn đau, táo bón rất khó chịu. Còn viêm họng hạt cứ hai ba tháng lại bị một lần, gây sốt nhẹ, ho khan kéo dài cả tuần lễ, uống kháng sinh, nhai lá “sống đời”, lá dẻ quạt, chanh muối… cũng chỉ đỡ một phần nào…
Sau Tết Tân Mùi đầu năm 1991, có ông bạn thân cùng quân ngũ thời chống Pháp khuyên tôi: “Ông nên tập vẩy tay đi, rất tốt. Chữa được nhiều bệnh thông thường, thậm chí còn phòng tránh được cả ung thư”. Mới đầu, tôi không tin, sau lại nghĩ mình cứ thử làm xem sao. Thế là bắt đầu nhập cuộc. Vừa tập theo hướng dẫn của bạn, tôi vừa tìm đọc các tài liệu của Trung Quốc. Qua đó, biết đây là phương pháp “Dịch cân kinh” một cách tập luyện đã có từ hơn 2.000 năm về trước của các võ sư, võ sinh Tây Tạng để rèn luyện sức khỏe trên đường hành hương kiếm sống qua sa mạc vùng Tây Á khắc nghiệt, chống chọi với bệnh tật và bọn “lục lâm thảo khấu” cướp đường.



Từ tháng 2 năm 1991 đến nay, tôi tập đều đều rất kiên trì, không bỏ ngày nào kể cả mồng Một Tết. Nóng bức, giá rét, mưa dầm gió bấc đều không bỏ tập. Yếu lĩnh cũng đơn giản. Đứng để vẩy tay. Giãn cách 2 bàn chân bằng chiều rộng 2 bả vai. Hai bàn tay để tự nhiên vẩy lên vẩy xuống. Khi vẩy lên hai bàn tay úp sấp chỉ đưa lên ngang tầm mắt. Khi vẩy xuống hai tay hất mạnh hết cỡ ra phía sau theo phương châm 4 chữ “Lên không, xuống có” tức là khi vẩy lên chỉ theo quán tính, nhưng lúc vẩy xuống cần hơi mạnh để tăng lực co bóp của hai lá phổi. Theo chỉ dẫn của tài liệu, mỗi ngày vẩy tay 1.800 lần liên tục trong một buổi là đã có tác dụng chữa bệnh, phòng bệnh, tăng cường sức khỏe và mỗi ngày cũng chỉ cần tập một buổi, không cần nhiều. Thoạt đầu, tôi để đồng hồ trước mặt, vừa vẩy vừa đếm 1.800 lần hết 34 phút. Như vậy, mỗi phút vẩy được 53 lần. Từ đó, tôi tập không cần nhẩm đếm, chỉ cần nhìn đồng hồ, cứ khoảng 35 phút là đạt yêu cầu. Cho “chắc ăn”, ngày nào tôi cũng tập một buổi 40 phút, tương đương 2120 lần vẩy tay. Vẩy xong, làm vài động tác đá chân vung tay, vặn mình cho giãn xương cốt, rất dễ chịu. Tôi thường vừa vẩy tay, vừa nghe đài hoặc xem ti-vi rất thoải mái và mau hết giờ. Mỗi lần tập xong thấy trong người khoan khoái hẳn lên kể cả những đêm hôm trước thức khuya mất ngủ.
Đến nay, sau 20 năm vẩy tay, như có một phép mầu nào đó, các bệnh lâu năm tôi phải chấp nhận sống chung đã chịu lùi bước. Giờ đây đã vào tuổi 80, hàng tháng kiểm tra huyết áp chỉ có 130/80, rất ổn định. Bệnh trĩ ra máu thưa dần và đến nay đã chấm dứt. Bệnh viêm họng hạt lâu lắm rồi không thấy tái phát. Chỉ còn bệnh viêm đại tràng mỗi năm chỉ đau một đợt vài ngày, so với trước đã đỡ nhiều. Cũng trong 20 năm vẩy tay, tôi không phải uống một viên thuốc kháng sinh nào.
Đúng như tài liệu đã viết, tác dụng chính của vẩy tay là làm cho mọi mặt trong cơ thể luôn cân bằng âm dương, cân bằng hàn nhiệt, cân bằng khí huyết, cân bằng hấp thu và bài tiết nên đã có tác dụng phòng bệnh chữa bệnh, vì theo y học phương Đông bệnh tật phát sinh xét cho cùng cũng do sự mất cân bằng âm dương trong cơ thể, nhất là mất cân bằng giữa khí và huyết.
Có thể hiểu trong nội tạng mỗi người đều có một hệ thống thủy lợi, đó là hệ tuần hoàn có hàng nghìn mạch máu lớn nhỏ từ tim tỏa đi nuôi cơ thể giống như hệ thống kênh mương tưới tiêu cho cánh đồng. Lâu ngày, nếu không được làm sạch loại bỏ mỡ máu và tạp chất thì hệ tuần hoàn sẽ bị tắc nghẽn, từ đó sinh ra bệnh nọ tật kia giống như hệ thống thủy lợi nếu không được nạo vét thường xuyên sẽ bị bùn đất bồi lắng, khả năng tưới tiêu giảm sút, đồng ruộng sẽ bị khô nẻ hoặc ngập úng. Vẩy tay giúp tim phổi hoạt động mạnh, là cách nạo vét các chất độc hại trong mạch máu bằng khí. Khí huyết lưu thông thì mọi cái sẽ thông, bệnh tật sẽ bị đầy lùi.
Thế Trường

(P304, nhà D12, TT Nam Đồng,
Đống Đa, Hà Nội – ĐT 04.38512672)


Bài 2. Người cao tuổi hãy tập “Đạt Ma Dịch cân kinh”

Tập “Dịch cân kinh” thấy ăn tốt ngủ ngon, đấy là việc phổ biến, nên đã làm tăng sức khỏe cho các bệnh nhân nói chung và chữa khá nhiều bệnh như: Suy nhược thần kinh, huyết áp cao, bệnh tim các loại, bệnh thận, bán thân bất toại, trúng gió, méo mồm, lệch mắt, hen suyễn…

Đông y cho rằng, vấn đề cơ bản của bệnh tật con người là do “khí huyết” (Âm-Dương) mất thăng bằng sinh ra. “Đạt Ma Dịch cân kinh” giải quyết được vấn đề này, nên đối với đa số các loại bệnh, nhất là bệnh mãn tính đều có thể chữa được cả…

Lịch sử:
Năm 917 (sau Công nguyên) Đạt Ma Tổ Sư từ Ấn Độ sang Trung Quốc thuyết pháp và truyền giáo, sau ở lại Trung Sơn – Hà Nam – Trung Quốc, xây dựng chùa Thiếu Lâm. Có nhiều đệ tử nhập môn học Phật để mai sau đi truyền giáo đem một tín ngưỡng mới đi tuyên truyền, có khi trái với tín ngưỡng cũ, dễ xảy ra xung đột nên cho đệ tử Chùa Thiếu Lâm vừa học lí thuyết Phật giáo, vừa phải luyện võ để tự vệ (một phái võ Thiếu Lâm vẫn tồn tại đến ngày nay).

Nhiều người xin nhập môn, nhưng thể lực kém không luyện võ được. Tổ sư truyền dạy một phương pháp luyện tập tên gọi là “Đạt Ma Dịch cân kinh” để chuyển biến thể lực của các đệ tử từ yếu thành khỏe. Cách tập đơn giản, nhưng hiệu lực lớn, vì tiêu trừ được bệnh.
Ngày nay, người ta nghiên cứu lại phương pháp này chữa được rất nhiều bệnh. phương pháp luyện tập “đạt Ma Dịch cân kinh” trước tiên nói về tư tưởng:
Phải có hào khí: nghĩa là phải có quyết tâm tập cho đến nơi và đều đặn, phải vững vàng tin tưởng, không nghe lời bàn ra nói vào mà chán nản bỏ dở.
Phải lạc quan: không lo sợ vì bệnh mà mọi người cho là hiểm nghèo, và tươi tỉnh tin rằng mình sẽ thắng bệnh do luyện tập.
Tư thế: “Trên không dưới có, trên ba dưới bảy”.

Trên phải không, dưới nên có, đầu nên lơ lửng, miệng không hoạt động, bụng phải mềm, lưng nên thẳng, thắt lưng mềm dẻo, hai cánh tay phải vẫy, cùi chỏ thẳng và mềm, cổ tay trầm, bàn tay quay lại phía sau, ngón xòe như cái quạt. Vẫy, hậu môn phải thót, bụng dưới thót, gót chân lỏng, bàn chân phải cứng, các ngón chân bấm chặt như đứng trên đất trơn. Đây là những quy định cụ thể của các yêu cầu khi luyện “Đạt Ma Dịch cân kinh”.
Dựa trên yêu cầu này, khi tập vẫy tay, thì từ cơ hoành trở lên, phải giữ cho được trống không, buông lỏng thảnh thơi, đầu không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào việc tập, xương cổ cần buông lỏng để có cảm giác như đầu treo lơ lửng, mồm giữ tự nhiên (không mím môi), ngực nên buông lỏng để cho phổi thở tự nhiên, cánh tay buông tự nhiên, giống như hai mái chèo gắn vào vai. Từ cơ hoành trở xuống phải giữ cho chắc, đủ sức căng, bụng dưới thót vào, hậu môn nhích lên, mười ngón chân bấm chặt vào mặt đất, giữ cho đùi và bắp chân trong trạng thái căng thẳng, xương mông thẳng như cây gỗ.

Động tác vẫy tay.
Khi vẫy tay cần nhớ “lên không, xuống có”, nghĩa là lấy sức vẫy tay về phía sau, khi tay trở lại phía trước là do quán tính, không dùng sức đưa ra phía trước.
“Trên ba dưới bảy” là phần trên để lỏng chỉ độ ba phần khí lực, phần dưới lấy gắng sức tới bảy phần thể lực, vấn đề này phải quán triệt đầy đủ thì hiệu quả rất tốt.
Mắt nhìn thẳng, đầu không nghĩ ngợi gì, chỉ nhẩm đếm lần vẫy tay.

Các bước tập cụ thể như sau:
a. Hai bàn chân để xích ra bằng khoảng cách của hai vai.
b. Hai cánh tay duỗi thẳng theo vai, ngón tay xòe thẳng, lòng bàn tay quay về phía sau.
c. Bụng dưới thót lại, lưng thẳng, bụng trên co lên, cổ lỏng, đầu miệng trong trạng thái bình thường.
d. Các đầu ngón chân bám trên mặt đất, gót chân sát đất, bắp chân và đùi thẳng.
e. Hai mắt chọn một điểm đằng xa để nhìn, không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào ngón chân bám đùi vế chắc, hậu môn thót và nhẩm đếm.
f. Dùng sức vẫy tay về phía sau, để hai tay trở lại phía trước theo quán tính, tuyệt đối không dùng sức, chân vẫn lên gân, hậu môn co lên không lòi.
g. Vẫy tay từ 300-400-500-600 dần dần lên tới 1.000 cái vẫy tay, ước chừng 30 phút.
h. Phải quyết tâm tập đều đặn, lần vẫy tay dần dần tăng lên không miễn cưỡng vì “dục tốc bất đạt”, nhưng cũng không tùy tiện bữa tập nhiều, bữa tập ít hoặc nghỉ bệnh, vì thế dễ làm mất lòng tin trong việc luyện tập, khó có kết quả.
Bắt đầu luyện tập cũng không nên dùng tận lực làm tổn thương các ngón chân (sau buổi tập nên vân vê các ngón chân, tay, mỗi ngón chín lần). Nôn nóng mong muốn khỏi bệnh ngay mà dùng quá sức cũng không đưa lại kết quả mong muốn. Có quyết tâm, nhưng phải từ từ tiến lên mới là đúng cách, sẽ thu được kết quả mĩ mãn.
Nếu tinh thần không tập trung, tư tưởng phân tán, thì khí huyết loạn xạ, và không chú ý đến “trên nhẹ dưới nặng” là sai và hỏng.
Khi vẫy tay tới 600 cái trở lên, thường thường có trung tiện, hắt hơi, hai chân nhức mỏi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng… đấy là hiện tượng bình thường, đừng ngại.
Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên, đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho hợp với “trên nhẹ, dưới nặng”. Đây là quy luật của sinh lí hợp với vũ trụ “thiên khinh, địa trọng”.
Bệnh gan: Do khí huyết, tạng gan không tốt gây nên khí không thoát, tích lũy, làm cho khó bài tiết. Đương nhiên là bệnh nan y ảnh hưởng tới cả mật và tì vị. Luyện “Dịch cân kinh” có thể giải quyết vấn đề này. Nếu có trung tiện là có kết quả sớm.
Bệnh mắt: Luyện “Dịch cân kinh” có thể khỏi đau mắt đỏ, các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm chí nó chữa được cả bệnh đục thủy tinh thể (thong manh).
Trong nội kinh có nói “mắt nhờ huyết mà nhìn được”, khi khí huyết không dẫn đến bộ phận của mắt thì đương nhiên sinh ra các bệnh của mắt. Con mắt là trong hệ thống của thị giác, nhưng cũng là một bộ phận của cơ thể.
Khi tập có thể có phản ứng sự xung đột giữa chính khí và tà khí, ta vẫn tập thì sẽ sản sinh ra chất bồi bổ có nhiều ích lợi cho chính khí. Ta luyện tập đúng phép là làm tăng mức đề kháng, thải cặn bã trong các gân, thần kinh và cả tế bào khác mà máu bình thường không thải nổi. Như luyện “Đạt Ma Dịch cân kinh” khí huyết lưu thông mới thải nổi các cặn bã ra nên sinh ra phản ứng. Vậy ta đừng sợ, cứ tiếp tục tập như thường, hết một phản ứng là khỏi một căn bệnh, tập luyện dần đưa lại kết quả tốt.
Luyện “Đạt Ma Dịch Cân Kinh” đạt được bốn tiêu chuẩn như sau:
Nội trung tố: tức là nâng cao can khí lên, là then chốt, điều chỉnh tạng phủ, lưu thông khí huyết, thanh khí sẽ thông suốt lên tới đỉnh đầu.
Tứ trưởng tố: tức là tứ chi phối hợp với động tác theo đúng nguyên tắc khi tập “Dịch cân kinh”. Tứ trưởng tố song song với Nội trung tố sẽ làm cho tà khí bài tiết ra ngoài, trọc khí dằn xuống, cơ năng sinh sản ngày càng mạnh.
Ngũ tâm phát: nghĩa là 5 trung tâm của huyệt dưới đây hoạt động mạnh hơn mức bình thường:
Bách hội: một huyệt trên đỉnh đầu.
Lao cung: hai huyệt của hai gan bàn tay.
Dũng Tuyền: hai huyệt ở hai gan bàn chân.
Khi luyện “Dịch cân kinh” năm huyệt này đều có phản ứng và hoàn toàn thông suốt. Nhâm đốc và 12 kinh mạch đều đạt tới hiệu quả phi thường, nó làm tăng cường thân thể tiêu trừ các bệnh nan y mà ta không ngờ.

Lục phủ minh: Lục phủ là ruột non, mật, dạ dày, ruột già, bong bóng, tam tiêu.
Nghĩa là không trì trệ, lục phủ có nhiệm vụ thâu nạp thức ăn tiêu hóa và bài tiết được thuận lợi, xúc tiến các cơ năng sinh sản, giữ vững trạng thái bình thường của cơ thể, tức là âm dương thăng bằng, cơ thể thịnh vượng. (Còn nữa)
Nguyễn Đức Thuần (St)

Bài 3. Bài tập thể dục đa năng

Bs PHẠM XUÂN PHỤNG
Tương truyền rằng bài tập phất thủ hay phẩy tay do Đức Đạt Ma tổ sư, vương tử thứ ba của vương quốc nước Thiên Trúc (ngày nay thuộc Ấn Độ), vị tổ của nền võ học Trung Hoa, nghiên cứu ra sau giai đoạn tiềm tu “Cửu niên diện bích” (9 năm quay mặt vào tường để quán tưởng và tinh tấn để đạt đạo), nhằm hồi phục sinh lực sau một thời gian luyện võ mệt mỏi của môn đệ. Nhận thấy bài tập có lợi trong việc phòng và trị bệnh cũng như giữ gìn sức khỏe, người đời truyển nhau tập luyện cho đến ngày nay. Là người đã thực hành và hướng dẫn cho nhiều bệnh nhân tập luyện trong nhiều năm qua, chúng tôi xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo và mong các bậc cao niên nhiều kinh nghiệm chỉ giáo thêm.

CÁC ĐỘNG TÁC CỦA BÀI TẬP PHẨY TAY
-Đứng thẳng, hai bàn chân hơi dạng ra rộng bằng vai. Ngón chân bám chặt vào đất hoặc ván gỗ. Hai tay buông thẳng tự nhiên. Năm ngón tay khép kín nhưng nhẹ nhàng. Lòng bàn tay úp theo tư thế tự nhiên
-Từ từ đưa hai bàn tay ra phía trước, như có ai buộc giây vào hai cổ tay mình mà kéo lên. Bản thân như không dùng sức. Lòng bàn tay úp xuống, cong tự nhiên, các ngón tay khép nhẹ. Khi hai tay lên cao ngang vai song song với nhau thì dừng lại. Lưng bàn tay hướng lên trời, lòng bàn tay hướng xuống đất. Hít vào từ từ trong quá trình này
-Dùng sức thật mạnh (như cố giật đứt sợi giây đang buột cổ tay) phẩy mạnh hai tay xuống dưới và ra sau lưng. Khi di động ra sau hết cỡ tự nhiên, hai cánh tay lập thành một hình thang mà đáy lớn là khoảng cách giữa hai đầu mút các ngón tay, rộng hơn vai một chút theo tỷ lệ ước định 6/5. Ví dụ hai vai rộng 40 cm thì hai bàn tay cách nhau cỡ 48 cm Thở ra từ từ.
Chú ý : Hai tay vẫn thẳng tự nhiên (nghĩa là hơi cong ở khủy tay),không co cẳng tay lại. Không bắt chéo hai tay vào nhau hoặc hướngnhau ở sau lưng. Lòng bàn tay ngửa lên trời khi động tác vừa chấm dứt.
-Từ từ bị kéo hai tay ra trước như động tác 2. Sau đó lập lại động tác 3, 4 … Cứ thế, hai tay đong đưa lui tới, như quả lắc (Có lẽ vì thế, có người gọi bài tập này là lắc tay chàng ?).
Sau vài lần đong đưa theo động tác mẫu, hai tay sẽ tự nhiên đong đưa lui tới theo quán tính, không cần gắng sức. Tuy có vẻ dễ thực hành, song cũng xin ghi ra dưới đây :

NHỮNG ĐIỀU QUAN TRỌNG CẦN GHI NHỚ
-Suốt quá trình tập : Miệng khép tự nhiên, hai hàm răng khít, nhưng không cắn chặt, môi kín, lưỡi cong lên, và luôn luôn áp sát vào vòm khẩu cái (hốc trên của miệng) nhằm nối hai mạch Nhâm và Đốc để khí luân lưu toàn thân. Rất dể quên động tác ép lưỡi này. Không sao cả, cứ nhẩm đi nhẩm lại trong đầu, lỡ quên thì làm lại chớ đừng ngưng tập vì sợ hải, sau nhiều lần tự nhiên quen.
-Suốt quá trình tập : Các ngón chân bấm chật vào đất hoặc ván gỗ, không tập trên sàn xi măng hoặc gạch hoa cách đất. Tốt nhất, tập trên ván gỗ kê nghiêng cách mặt đất chừng 15 độ. Truớc cao sau thấp.
-Suốt quá trình tập : Hậu môn luôn thót lại để bế dương khí, không cho thoát ra : Nếu không thót hậu môn, cứ để tự nhiên mà tập, sẽ có thể bị trĩ hoặc sa thực tràng (lòi dom) do khí bị dồn ép xuống Đan điền, tăng sức ép vùng chậu hông. Hô hấp tự nhiên (nhẹ và đều) nhằm giải thoát này một phần. Bế khí lành, trục khí độc. Rất hay quên động tác này. Cố ghi nhớ khi quên sực nhớ ra cứ làm lại và cứ tập. Sau vài buổi tập, tự nhiên điều khiển được. Nhưng phải nhớ hai chân luôn đứng rộng bằng vai. Người đang bị trĩ, sa trực tràng, sỏi tiết niệu, đại tiện lỏng do rối loạntiêu hoá hoặc bệnh đường ruột không nên tập. Hếtđi lỏng, tập nhưthường – Lời khuyên dè dặt. Người táo bón kinh niên, tập bài nay rất tốt nếu bị trĩ hoặc sa thực tràng – Lời khuyên theo kinh nghiệm lâm sàng thực tế.
-Ngoài ba động tác cố nhớ và cố sức trên đây, toàn bộ các tác động còn lại (trừ động tác phẩy tay ra sau) đều tuân thủ nguyên tắc : tự nhiên, nhẹ nhàng, mềm mại.
-Khi phẩy tay, các khớp xương tay thỉnh thoảng cong lại rồi duỗi thẳng ra, nhất là khớp cổ tay.
-Khi phẩy tay, mắt luôn nhìn thẳng về một điểm tưởng tượng hoăc có thật ở phía trước. Tập trung tư tưởng vào các việc : hô hấp đều, ép lưỡi, bấm ngón chân, thót hậu môn và đếm số lần phẩy tay. Không nghĩ vu vơ.
-Khi phẩy tay một hồi, cảm thấy mệt mỏi, phải dừng lai ngay. Hôm sau tập tăng dần. Những buổi đầu, tập phẩy tay từ vài chục lần/buổi. Dần dần nâng lên 1000 lần đến vài ngàn lần/buổi. Theo kinh nghiệm bản thân, một buổi tập phẫy 1000 lần mất chừng 30 phút. Tốc độ phẫy tay tương đương tốc độ đong đưa tay (đánh đường xa) khi ta bước nhanh.
-Tập mỗi ngày 1-2 lần. Buổi sáng, sau khi đánh răng rửa mặt, làm vệ sinh thân thể. Buổi tối, sau khi làm vệ sinh thân thể, tập xong lên giường ngủ luôn. Nhớ kỹ sau khi tập, không được dùng nước lạnh hoặc nước ấm để lau rửa thân thểvì sẽ làm tiêu hao nguyên khí.
-Vấn đề phản ứng : Mới tập ít buổi, giai đoạn khí huyết đang lưu chuyển, biến hoá sẽ sinh ra một số phản ứng của cơ thể (người có, người không) : hắt hơi, trung tiện nhiều, tê đầu ngón tay, đau đầu ngón chân, cảm giác nóng lạnh bất thường, cảm giác kiến bò, chấn động trong mình. Đó là do lâu nay khí huyết uế, huyết trọc bị ứ đọng, kinh lạc có chỗ bất thông. Nay do tập luyện đúng cách, khí huyết được thanh lọc, khí uế huyết trọc được trục dần ra ngoài, xuống dưới, kinh lạc được khai thông lưu chuyển tạo nên các triệu chứng trên. Đó là các dấu hiệu tốt. Tập lâu dần,tự nhiên khí huyết bình hoà, kinh lạc thông suốt, cơ thể trở nên khoẻmạnh, không còn các dấu hiệu trên.

KẾT LUẬN
Đặc điểm cơ bản của phẩy tay là : Thượng hư – Hạ thực. Làm cho trênn rỗng, dưới đầy. Trên nhẹ, dưới nặng, động tác nhu hòa, tinh thần tập trung, hai tay đong đưa mềm dẻo theo đường cong của Thái cực làm cho có thể cải thiện được tình trạng Thượng thực – Hạ hư của những người có thể chất yếu, tiên thiên bất túc, hậu thiên bất tục, những người lao tâm khổ trí, uẩn ức ưu phiền, quân hỏa suy, tướng hỏa vượng, gây nên chứng trên nặng dưới nhẹ, đầu váng, mắt hoa, đau nhức mình mẩy, mất ngủ về đêm, buồn ngủ lúc làm việc, chân tay uể oải, đại tiện táo kết, tiểu tiện đỏ, đi đứng liêu xiêu, tai ù, mắt mờ. Tình trạng trên được cải thiện, phần dưới được kiên cố nên nặng, phần trên cần linh hoạt nên nhẹ, đều được như ý. Bệnh tật sẽ tự tan biến đi.

CHỈ ĐỊNH
-Các chứng đã nêu trong phần yếu luận.

-Bồi bổ chân nguyên, thanh lọc khí huyết, tăng cường sinh lực và sự
mền dẻo, độ bền của cơ lực và trí nhớ.
-Tự nhiên chữa được các chứng đau lưng, đau cơ khớp, đau mỏi vai
gáy, cánh tay, uể oải mệt nhọc, biếng ăn …


CHỐNG CHỈ ĐỊNH (theo thực tế lâm sàng) :
-Trĩ nặng, sa trực tràng, sỏi tiết niệu.

-Bệnh tim mạch nặng, có dấu hiệu suy tim.
-Thận trọng với các chứng : Cao huyết áp kịch phát, động kinh, rối
loạn tiền đình, u não, glaucome …
-Tạm dừng tập khi : Bị đi lỏng, thai cuối kỳ, đang hành kinh.


KINH NGHIỆM BẢN THÂN
-Gần 50 tuổi, đọc chữ nhỏ không cần đeo kính.
-Mất ngủ (ngủ ít, ngủ không sâu, hay mơ loạn, tỉnh dậy hồi hộp đánh

trống ngực, nặng đầu, trí nhớ kém sút, chán ăn, sức làm việc giảm)
hàng tháng trời. Tập bài này, ngay lần đầu tiên đã có một giấc ngủ
say, sáng dậy thấy sảng khoái. Nay có thể thức thâu đêm làm việc.

-Táo bón : Hay bị táo bón, tập đến ngày thứ 3, khi đi ngoài phân

nhuyễn, cảm giác êm ái. Nay hết táo bón đã nhiều năm.
-Đau lưng : Trước đây, ngồi hay đứng lâu độ một giờ, thấy lưng đau êẩm. Nay có khả năng ngồi đọc sách và viết liên tục 4-5 giờ đồng hồkhông thấy đau lưng.
Ghi chú
Các chỉ định và chống chỉ định trên đây là dựa vào thưc tế hướng dẫn cho người bệnh tập luyện rồi đúc rút lại. Cũng chỉ mới dừng ở mức kinh nghiệm lâm sàng. Cần và mong được tạo điều kiện pháp lý để tiến hành nghiên cứu nghiêm túc bởi nhiều nhà y học, nhà võ học, để tổng kết thành một công trình Nghiên Cứu Khoa Học Y học hẳn hoi.

LỜI CA TRUYỀN KHẦU VỀ 16 YẾU LĨNH & LỜI KHUYÊN LỢI ÍCH CỦA PHẤT THỦ LIỆU PHÁP
Đứng vững chuyển mãi các khớp xương

Gân cốt giản ra, hơi độc tiêu
Hư thực đổi thay hơi khép mở
Khí đều tay chân trăm mạch sống
Trên ba dưới bảy có trọng tâm
Hai chân đứng vững vai trì xuống
Khử bệnh đầu nặng chân nhẹ đó
Tinh khí tràn trề thân nhẹ nhõm
Phẩy tay trị bệnh đúng nguyên nhân
Hơn cả xoa bóp và châm cứu (*)
Khí huyết không thông nảy trăm bệnh
Khí hoà tâm bình bệnh khó sinh.


1 Nhận xét

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn