Toàn cầu hóa đem lại nhiều lợi ích cho nhân loại song nó cũng làm trầm trọng hơn một số tệ nạn. Một trong những hậu quả đáng tiếc ấy là rửa tiền trở nên dễ dàng hơn, do đó khuyến khích những hoạt động phi pháp khác. Bài viết dưới đây phần nào sẽ giúp các thành viên vnecon.com giải đáp được thắc mắc trên.
Rửa tiền là gì?
Rửa tiền là việc biến đổi thu nhập phi pháp thành tài sản mà các cơ quan công quyền không thể truy ra nguồn gốc phi pháp ấy. Rửa tiền không phải là một hiện tượng mới. Theo nhiều sử gia, thương nhân Trung Quốc đã biết “rửa tiền” hơn ba ngàn năm trước để tránh thuế của triều đình. Tuy nhiên, hoạt động này đã bùng nổ với toàn cầu hóa, gây nhiều hậu quả nghiêm trọng về kinh tế và xã hội, đặc biệt ở các nước đang phát triển hoặc chuyển tiếp.
Ai cần rửa tiền?
Có thể xếp những người rửa tiền (ngoài các tổ chức khủng bố, một hiện tượng tương đối mới) làm ba nhóm:
- Những người buôn lậu (ma túy, vũ khí, lao động bất hợp pháp…).
- Những người tham nhũng.
- Những người muốn tránh thuế, nói chung là những người muốn giữ kín thu nhập thật sự (dù là hợp pháp) của mình.
Tiền bẩn có thể từ các doanh nghiệp làm ăn công khai, chẳng hạn khi họ chuyển tiền từ nước này sang nước khác để tránh thuế. Có hai phương pháp để làm việc này. Một là khai gian giá trị những dịch vụ mà bản chất là hợp pháp. Hai là khai (như trong hóa đơn) một dịch vụ hoàn toàn không có (kể cả việc lập công ty ma). Trong các nguồn tiền cần rửa thì có lẽ nguồn kinh doanh là phản ánh tính toàn cầu hóa nhiều nhất, mà một trong những biểu hiện là việc khai man giá chuyển giao (transfer price) để tránh thuế của các công ty xuyên quốc gia.
Tất nhiên, ba nhóm trên không hoàn toàn biệt lập: tham nhũng, rửa tiền, và kinh doanh bất chính có nhiều chỗ giống nhau, cấu kết với nhau, và tiếp sức cho nhau. Ví dụ, tham nhũng thì cần có người để rửa tiền hối lộ, người rửa tiền này có thể là tội phạm chuyên nghiệp, hoặc công ty ma. Ngược lại, tội phạm và doanh nghiệp cũng thường đút lót các quan chức tham ô để làm ngơ dịch vụ rửa tiền.
Công nghiệp rửa tiền
Dù không ít tội phạm đích thân rửa tiền bẩn của mình, một ngành “công nghiệp” rửa tiền đã xuất hiện để phục vụ những cá thể có tiền bẩn. Đội ngũ của ngành này, chủ chốt là những người rửa tiền chuyên nghiệp, ngày càng được tăng cường với nhiều luật sư cao giá, người giao dịch chứng khoán, mua bán bất động sản, cố vấn thuế vụ, kế toán... Thật vậy, có lẽ biến tướng nổi bật nhất của bộ máy rửa tiền là càng ngày nó càng xâm nhập sâu vào nhiều lĩnh vực kinh doanh, ngành nghề tương đối có uy tín trong xã hội (như các ngân hàng lớn, hiệp hội thể thao, cơ sở văn hóa, thậm chí các cơ quan từ thiện). Qua đó, cách thức và phương tiện rửa tiền ngày càng tinh vi, đa dạng, quy mô hơn.
Nhìn chung, hình thức rửa tiền cũng đang trải qua nhiều thay đổi: ít dựa vào tiền mặt, vào hệ thống ngân hàng… mà sử dụng nhiều hơn các công cụ và thị trường tài chính khác (như chứng khoán) hoặc hình thức “hàng đổi hàng” (ví dụ: ma túy đổi lấy vũ khí).
Từ thập kỷ 1990, công nghiệp rửa tiền lại được thêm nhiều “cú hích” do các thay đổi về thể chế và chính sách tài chính cũng như những tiến bộ về công nghệ.
Thứ nhất, hầu hết mọi quốc gia đều nới lỏng kiểm soát ngoại hối, nhất là từ đầu thập kỷ 1990. Ở nhiều nước, việc đổi nội tệ ra ngoại tệ, và ngược lại, là hoàn toàn tự do. Lượng tiền hoán đổi hàng ngày đã tăng từ 590 tỷ USD năm 1989 lên 1.880 tỷ năm 2004. Đi xa hơn, nhiều quốc gia đã chính thức sử dụng chung một thứ tiền (trường hợp đồng euro), hoặc công nhận USD hay euro như là nội tệ bán chính thức của họ. Một số công cụ tài chính mới (như các loại hợp đồng chứng khoán), đôi khi rất phức tạp, đã xuất hiện. Nhờ thế, một lượng tiền (sạch hay bẩn) khổng lồ có thể được chuyển từ nước này sang nước khác trong nháy mắt, ngoài tầm kiểm soát của cơ quan công lực.
Thứ hai, tiến độ mở cửa kinh tế ở hầu hết các nước đã tăng vọt, nhất là từ 10-15 năm gần đây. Các thị trường tài chính (đặc biệt là vốn) trở nên thông thoáng hơn. Số lượng tiền lưu hành toàn cầu đã tăng gấp ba (từ 6.800 tỷ USD năm 1990 lên đến 19.900 tỷ USD năm 2005), mức độ phức tạp cũng tăng lên. Hiển nhiên, càng nhiều loại hình dịch vụ tài chính thì càng lắm cơ hội và cách thức để chuyển tiền phi pháp, hoặc đưa tiền bẩn vào luồng tiền sạch.
Thứ ba, cạnh tranh thu hút vốn ngày càng kịch liệt giữa các nước, các công ty phát hành chứng khoán, các ngân hàng và các loại định chế tài chính trung gian khác. Đây cũng là sự kiện làm những người rửa tiền thích thú vì họ biết rằng sớm muộn gì cũng có ngân hàng, hay các công ty chứng khoán, sẵn sàng nhận tiền của họ mà không cần biết nguồn gốc tiền ấy.
Thứ tư, là tác động của cuộc cách mạng thông tin. Ở rất nhiều nước, ngân hàng là lĩnh vực đưa tiến bộ công nghệ thông tin vào ứng dụng sớm và nhanh nhất. Những thành quả của cuộc cách mạng thông tin đã được những người rửa tiền lợi dụng triệt để, trong khi đó, ở lĩnh vực này, các cơ quan công lực tỏ ra chậm chạp hơn nhiều, nhất là khi họ cần phối hợp giữa nhiều địa phương hay xuyên quốc gia.
Cuối cùng, phải kể đến những lối rửa tiền mới, sử dụng internet. Những trang web “đen” như trang sex, cờ bạc, cá cược... thường được dùng để rửa tiền vì các cơ quan công lực khó có thể truy ra tiền ấy từ đâu đến và vào tay ai.
Hậu quả và chính sách
Cũng có người cho rằng, một số quốc gia, nhất là ở phương Tây, đã có lợi nhờ tiền bẩn.
Khách quan nhìn từ quan điểm phân bố nguồn lực (tạm gác qua một bên những phán đoán đạo lý và pháp luật), một số nhà kinh tế cực đoan (tôn sùng thị trường) cho rằng không có tiền nào là bẩn, tiền nào là sạch. Theo họ, “rửa tiền” chỉ là phản ứng “hợp lý” của mọi “cá thể kinh tế”: không ai muốn trả thuế và ai cũng muốn vận dụng tài sản của mình vào những hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận nhất. Như vậy, tiền bẩn, theo họ, đã giúp phát triển kinh tế.
Song, ngay trên cơ sở thuần lý thuyết, ý kiến này là hoàn toàn sai lầm. Tự bản chất của nó, sự phân bố tài nguyên do rửa tiền không chỉ theo tín hiệu lợi nhuận, mà phần lớn là để trốn tránh luật pháp. Hoạt động rửa tiền vừa lãng phí nguồn lực kinh tế của xã hội (vào các hoạt động tội phạm sinh ra tiền bẩn, thay vì vào các hoạt động sản xuất thật sự hữu ích), vừa bóp méo sự phân bố các nguồn lực ấy.
Ngoài những ảnh hưởng về phân bố tài nguyên, luồng tiền bẩn cũng sẽ làm sai lệch các thống kê kinh tế. Ngoài ra, ảnh hưởng của mỗi loại tiền bẩn có khác nhau (chẳng hạn tiền bẩn do tham nhũng có ảnh huởng khác tiền bẩn do buôn lậu). Thiếu những con số chính xác, tất nhiên là chính sách kinh tế (nhất là về tiền tệ, như việc điều chỉnh lãi suất) sẽ không thể đúng liều lượng và hữu hiệu được.
Tiền bẩn và hoạt động rửa tiền cũng ảnh hưởng sâu sắc đến phân bố thu nhập (tạo bất công) và làm chao đảo sự tín nhiệm của xã hội vào các thị trường tài chính. Nhìn từ quan điểm tăng trưởng vĩ mô, có thể đây là tai hại nguy hiểm nhất.
Làm sao để chống rửa tiền? Rõ ràng là cần sự quyết tâm của mọi quốc gia và sự phối hợp toàn cầu. Một khó khăn căn bản hiện nay là mỗi nước đánh giá tính quan trọng của mỗi loại tiền bẩn một khác. Ở các nước chậm tiến thì nạn tham nhũng rửa tiền là vấn đề nhức nhối nhất. Trái lại, các nước phương tây thì xem việc rửa tiền bẩn liên hệ đến khủng bố là quan trọng nhất và không hề “chê” tiền bẩn do tham nhũng ở các nước khác.
Rửa tiền là gì?
Rửa tiền là việc biến đổi thu nhập phi pháp thành tài sản mà các cơ quan công quyền không thể truy ra nguồn gốc phi pháp ấy. Rửa tiền không phải là một hiện tượng mới. Theo nhiều sử gia, thương nhân Trung Quốc đã biết “rửa tiền” hơn ba ngàn năm trước để tránh thuế của triều đình. Tuy nhiên, hoạt động này đã bùng nổ với toàn cầu hóa, gây nhiều hậu quả nghiêm trọng về kinh tế và xã hội, đặc biệt ở các nước đang phát triển hoặc chuyển tiếp.
Ai cần rửa tiền?
Có thể xếp những người rửa tiền (ngoài các tổ chức khủng bố, một hiện tượng tương đối mới) làm ba nhóm:
- Những người buôn lậu (ma túy, vũ khí, lao động bất hợp pháp…).
- Những người tham nhũng.
- Những người muốn tránh thuế, nói chung là những người muốn giữ kín thu nhập thật sự (dù là hợp pháp) của mình.
Tiền bẩn có thể từ các doanh nghiệp làm ăn công khai, chẳng hạn khi họ chuyển tiền từ nước này sang nước khác để tránh thuế. Có hai phương pháp để làm việc này. Một là khai gian giá trị những dịch vụ mà bản chất là hợp pháp. Hai là khai (như trong hóa đơn) một dịch vụ hoàn toàn không có (kể cả việc lập công ty ma). Trong các nguồn tiền cần rửa thì có lẽ nguồn kinh doanh là phản ánh tính toàn cầu hóa nhiều nhất, mà một trong những biểu hiện là việc khai man giá chuyển giao (transfer price) để tránh thuế của các công ty xuyên quốc gia.
Tất nhiên, ba nhóm trên không hoàn toàn biệt lập: tham nhũng, rửa tiền, và kinh doanh bất chính có nhiều chỗ giống nhau, cấu kết với nhau, và tiếp sức cho nhau. Ví dụ, tham nhũng thì cần có người để rửa tiền hối lộ, người rửa tiền này có thể là tội phạm chuyên nghiệp, hoặc công ty ma. Ngược lại, tội phạm và doanh nghiệp cũng thường đút lót các quan chức tham ô để làm ngơ dịch vụ rửa tiền.
Công nghiệp rửa tiền
Dù không ít tội phạm đích thân rửa tiền bẩn của mình, một ngành “công nghiệp” rửa tiền đã xuất hiện để phục vụ những cá thể có tiền bẩn. Đội ngũ của ngành này, chủ chốt là những người rửa tiền chuyên nghiệp, ngày càng được tăng cường với nhiều luật sư cao giá, người giao dịch chứng khoán, mua bán bất động sản, cố vấn thuế vụ, kế toán... Thật vậy, có lẽ biến tướng nổi bật nhất của bộ máy rửa tiền là càng ngày nó càng xâm nhập sâu vào nhiều lĩnh vực kinh doanh, ngành nghề tương đối có uy tín trong xã hội (như các ngân hàng lớn, hiệp hội thể thao, cơ sở văn hóa, thậm chí các cơ quan từ thiện). Qua đó, cách thức và phương tiện rửa tiền ngày càng tinh vi, đa dạng, quy mô hơn.
Nhìn chung, hình thức rửa tiền cũng đang trải qua nhiều thay đổi: ít dựa vào tiền mặt, vào hệ thống ngân hàng… mà sử dụng nhiều hơn các công cụ và thị trường tài chính khác (như chứng khoán) hoặc hình thức “hàng đổi hàng” (ví dụ: ma túy đổi lấy vũ khí).
Từ thập kỷ 1990, công nghiệp rửa tiền lại được thêm nhiều “cú hích” do các thay đổi về thể chế và chính sách tài chính cũng như những tiến bộ về công nghệ.
Thứ nhất, hầu hết mọi quốc gia đều nới lỏng kiểm soát ngoại hối, nhất là từ đầu thập kỷ 1990. Ở nhiều nước, việc đổi nội tệ ra ngoại tệ, và ngược lại, là hoàn toàn tự do. Lượng tiền hoán đổi hàng ngày đã tăng từ 590 tỷ USD năm 1989 lên 1.880 tỷ năm 2004. Đi xa hơn, nhiều quốc gia đã chính thức sử dụng chung một thứ tiền (trường hợp đồng euro), hoặc công nhận USD hay euro như là nội tệ bán chính thức của họ. Một số công cụ tài chính mới (như các loại hợp đồng chứng khoán), đôi khi rất phức tạp, đã xuất hiện. Nhờ thế, một lượng tiền (sạch hay bẩn) khổng lồ có thể được chuyển từ nước này sang nước khác trong nháy mắt, ngoài tầm kiểm soát của cơ quan công lực.
Thứ hai, tiến độ mở cửa kinh tế ở hầu hết các nước đã tăng vọt, nhất là từ 10-15 năm gần đây. Các thị trường tài chính (đặc biệt là vốn) trở nên thông thoáng hơn. Số lượng tiền lưu hành toàn cầu đã tăng gấp ba (từ 6.800 tỷ USD năm 1990 lên đến 19.900 tỷ USD năm 2005), mức độ phức tạp cũng tăng lên. Hiển nhiên, càng nhiều loại hình dịch vụ tài chính thì càng lắm cơ hội và cách thức để chuyển tiền phi pháp, hoặc đưa tiền bẩn vào luồng tiền sạch.
Thứ ba, cạnh tranh thu hút vốn ngày càng kịch liệt giữa các nước, các công ty phát hành chứng khoán, các ngân hàng và các loại định chế tài chính trung gian khác. Đây cũng là sự kiện làm những người rửa tiền thích thú vì họ biết rằng sớm muộn gì cũng có ngân hàng, hay các công ty chứng khoán, sẵn sàng nhận tiền của họ mà không cần biết nguồn gốc tiền ấy.
Thứ tư, là tác động của cuộc cách mạng thông tin. Ở rất nhiều nước, ngân hàng là lĩnh vực đưa tiến bộ công nghệ thông tin vào ứng dụng sớm và nhanh nhất. Những thành quả của cuộc cách mạng thông tin đã được những người rửa tiền lợi dụng triệt để, trong khi đó, ở lĩnh vực này, các cơ quan công lực tỏ ra chậm chạp hơn nhiều, nhất là khi họ cần phối hợp giữa nhiều địa phương hay xuyên quốc gia.
Cuối cùng, phải kể đến những lối rửa tiền mới, sử dụng internet. Những trang web “đen” như trang sex, cờ bạc, cá cược... thường được dùng để rửa tiền vì các cơ quan công lực khó có thể truy ra tiền ấy từ đâu đến và vào tay ai.
Hậu quả và chính sách
Cũng có người cho rằng, một số quốc gia, nhất là ở phương Tây, đã có lợi nhờ tiền bẩn.
Khách quan nhìn từ quan điểm phân bố nguồn lực (tạm gác qua một bên những phán đoán đạo lý và pháp luật), một số nhà kinh tế cực đoan (tôn sùng thị trường) cho rằng không có tiền nào là bẩn, tiền nào là sạch. Theo họ, “rửa tiền” chỉ là phản ứng “hợp lý” của mọi “cá thể kinh tế”: không ai muốn trả thuế và ai cũng muốn vận dụng tài sản của mình vào những hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận nhất. Như vậy, tiền bẩn, theo họ, đã giúp phát triển kinh tế.
Song, ngay trên cơ sở thuần lý thuyết, ý kiến này là hoàn toàn sai lầm. Tự bản chất của nó, sự phân bố tài nguyên do rửa tiền không chỉ theo tín hiệu lợi nhuận, mà phần lớn là để trốn tránh luật pháp. Hoạt động rửa tiền vừa lãng phí nguồn lực kinh tế của xã hội (vào các hoạt động tội phạm sinh ra tiền bẩn, thay vì vào các hoạt động sản xuất thật sự hữu ích), vừa bóp méo sự phân bố các nguồn lực ấy.
Ngoài những ảnh hưởng về phân bố tài nguyên, luồng tiền bẩn cũng sẽ làm sai lệch các thống kê kinh tế. Ngoài ra, ảnh hưởng của mỗi loại tiền bẩn có khác nhau (chẳng hạn tiền bẩn do tham nhũng có ảnh huởng khác tiền bẩn do buôn lậu). Thiếu những con số chính xác, tất nhiên là chính sách kinh tế (nhất là về tiền tệ, như việc điều chỉnh lãi suất) sẽ không thể đúng liều lượng và hữu hiệu được.
Tiền bẩn và hoạt động rửa tiền cũng ảnh hưởng sâu sắc đến phân bố thu nhập (tạo bất công) và làm chao đảo sự tín nhiệm của xã hội vào các thị trường tài chính. Nhìn từ quan điểm tăng trưởng vĩ mô, có thể đây là tai hại nguy hiểm nhất.
Làm sao để chống rửa tiền? Rõ ràng là cần sự quyết tâm của mọi quốc gia và sự phối hợp toàn cầu. Một khó khăn căn bản hiện nay là mỗi nước đánh giá tính quan trọng của mỗi loại tiền bẩn một khác. Ở các nước chậm tiến thì nạn tham nhũng rửa tiền là vấn đề nhức nhối nhất. Trái lại, các nước phương tây thì xem việc rửa tiền bẩn liên hệ đến khủng bố là quan trọng nhất và không hề “chê” tiền bẩn do tham nhũng ở các nước khác.
إرسال تعليق