Recursive lookup refers to routes for which the second routing lookup is required in order to resolve the exit path for traffic going to this destination. Mostly, this generally refers to routes that define only the next hop address (that’s a non directly connected subnet) without a specified exit interface. This can be found in both dynamic routing protocols and static route entries.
For instance, Router A has 2 directly connected subnets, one is 10.0.0.0/26 and the other is 172.16.0.0/26. Router B is connected to Router A at 10.0.0.0/26, and also has a directly connected subnet (to the Internet) via 58.86.28.0/26. If Router A creates a route that only specify a next hop address of 58.86.28.10, for example, 2 lookups are needed. The first to see how to reach 58.86.28.0/26, and the result will be 10.0.0.0/26. From there, Router A deducts, traffic for this destination must exit the interface connected to Router B. This is recursive lookup.
A route that requires recursive lookup is indicated by a ‘via X.X.X.X’ entry in the routing table, where X.X.X.X is not a member of locally connected subnets.
Recursive lookup may sound tedious and excessive, but in some situation, it may be desirable. Such situation often involves multi-access networks, such as Ethernet or Frame Relay. If Router A is connected to a switch that also connects to 3 other routers in the same IP subnet, and you specify only the exit interface (avoiding recursive lookup), how does the router know which (other) router will receive the traffic?
In this case, recursive lookup is favorable because the next-hop IP address is critical in determining what traffic can be received by which router.
Recursive FIB entry:
Thuật ngữ chỉ sự thực hiện một tìm kiềm cho địa chỉ IP nex hop tới một đích được gọi là recursive lookup (tìm kiếm đệ qui).Tuyến đường đệ qui là tuyền đường mà đòi hỏi thông tin forwarding và adjacency của một tuyến đường khác.Recursive FIB entry được sử dụng khi router phải tìm kiếm địa chỉ IP next-hop cho một tham chiếu prefix để tìm kiếm chuỗi layer 2 header rewrite và interface đầu ra thích hợp cho prefix đích. Border Gateway Protocol (BGP) là nguồn gốc phổ biến cho recursive entry bởi địa chỉ IP sử dụng như là next hop cho advertised prefix hầu như không bao giờ kết nối trực tiếp với router.Trong ví dụ 2-6 chú ý rằng FIB entry biểu thị như là recursive.
Example 2-6. Recursive FIB Entry
Router#show ip route 172.31.12.0 255.255.255.0
Routing entry for 172.31.12.0/24
Known via "static", distance 1, metric 0
Routing Descriptor Blocks:
* 192.170.1.10
Route metric is 0, traffic share count is 1
Router#show ip cef 172.31.12.0 255.255.255.0
172.31.12.0/24, version 55, cached adjacency 192.170.1.10
0 packets, 0 bytes
tag information set
local tag: 4
via 192.170.1.10, 0 dependencies, recursive
next hop 192.170.1.10, FastEthernet0/1 via 192.170.1.10/32
valid cached adjacency
Trong hình 2-9, router A chỉ có thể biết được mạng 172.31.12.0/24 qua tuyến đường config tĩnh. Router cài đặt tuyến đường tĩnh này với địa chỉ next hop 192.170.1.10.Khi chuyển mạch gói tin tới đích trên mạng 172.31.12.0/24, router A phải thực hiện một tìm kiếm khác trên 192.170.1.10 để xác định interface đầu ra thích hợp, chuỗi layer 2 rewrite và thông tin về next hop khác được cài đặt về đích.
Internet backbone router mang các bảng routing table rất lớn và hầu hết đểu là tử tuyến đường BGP. Đa số các tuyến đường BGP đểu là tuyến đường đệ qui. Ví dụ, hầu hết các BGP ngang hàng được thực hiện giữa các interface loopback.Địa chỉ IP next hop của prefix nhận nói chung là các địa chỉ lookback, mà không kết nối tới local router.Bởi vậy,router phải thực hiện tìm kiếm đa đường dựa trên địa chỉ IP next hop của prefix cho một đích,suy ra hiệu suất trở nên một nhân tố.Để làm giảm tác động của hiệu suất, CEF thực hiện giải pháp đệ qui.
For instance, Router A has 2 directly connected subnets, one is 10.0.0.0/26 and the other is 172.16.0.0/26. Router B is connected to Router A at 10.0.0.0/26, and also has a directly connected subnet (to the Internet) via 58.86.28.0/26. If Router A creates a route that only specify a next hop address of 58.86.28.10, for example, 2 lookups are needed. The first to see how to reach 58.86.28.0/26, and the result will be 10.0.0.0/26. From there, Router A deducts, traffic for this destination must exit the interface connected to Router B. This is recursive lookup.
A route that requires recursive lookup is indicated by a ‘via X.X.X.X’ entry in the routing table, where X.X.X.X is not a member of locally connected subnets.
Advantage of Recursive Lookup
Recursive lookup may sound tedious and excessive, but in some situation, it may be desirable. Such situation often involves multi-access networks, such as Ethernet or Frame Relay. If Router A is connected to a switch that also connects to 3 other routers in the same IP subnet, and you specify only the exit interface (avoiding recursive lookup), how does the router know which (other) router will receive the traffic?
In this case, recursive lookup is favorable because the next-hop IP address is critical in determining what traffic can be received by which router.
Recursive FIB entry:
Thuật ngữ chỉ sự thực hiện một tìm kiềm cho địa chỉ IP nex hop tới một đích được gọi là recursive lookup (tìm kiếm đệ qui).Tuyến đường đệ qui là tuyền đường mà đòi hỏi thông tin forwarding và adjacency của một tuyến đường khác.Recursive FIB entry được sử dụng khi router phải tìm kiếm địa chỉ IP next-hop cho một tham chiếu prefix để tìm kiếm chuỗi layer 2 header rewrite và interface đầu ra thích hợp cho prefix đích. Border Gateway Protocol (BGP) là nguồn gốc phổ biến cho recursive entry bởi địa chỉ IP sử dụng như là next hop cho advertised prefix hầu như không bao giờ kết nối trực tiếp với router.Trong ví dụ 2-6 chú ý rằng FIB entry biểu thị như là recursive.
Example 2-6. Recursive FIB Entry
Router#show ip route 172.31.12.0 255.255.255.0
Routing entry for 172.31.12.0/24
Known via "static", distance 1, metric 0
Routing Descriptor Blocks:
* 192.170.1.10
Route metric is 0, traffic share count is 1
Router#show ip cef 172.31.12.0 255.255.255.0
172.31.12.0/24, version 55, cached adjacency 192.170.1.10
0 packets, 0 bytes
tag information set
local tag: 4
via 192.170.1.10, 0 dependencies, recursive
next hop 192.170.1.10, FastEthernet0/1 via 192.170.1.10/32
valid cached adjacency
Trong hình 2-9, router A chỉ có thể biết được mạng 172.31.12.0/24 qua tuyến đường config tĩnh. Router cài đặt tuyến đường tĩnh này với địa chỉ next hop 192.170.1.10.Khi chuyển mạch gói tin tới đích trên mạng 172.31.12.0/24, router A phải thực hiện một tìm kiếm khác trên 192.170.1.10 để xác định interface đầu ra thích hợp, chuỗi layer 2 rewrite và thông tin về next hop khác được cài đặt về đích.
Internet backbone router mang các bảng routing table rất lớn và hầu hết đểu là tử tuyến đường BGP. Đa số các tuyến đường BGP đểu là tuyến đường đệ qui. Ví dụ, hầu hết các BGP ngang hàng được thực hiện giữa các interface loopback.Địa chỉ IP next hop của prefix nhận nói chung là các địa chỉ lookback, mà không kết nối tới local router.Bởi vậy,router phải thực hiện tìm kiếm đa đường dựa trên địa chỉ IP next hop của prefix cho một đích,suy ra hiệu suất trở nên một nhân tố.Để làm giảm tác động của hiệu suất, CEF thực hiện giải pháp đệ qui.
إرسال تعليق