Ngày nay, công nghệ thông tin có những bước tiến nhảy vọt đặc biệt là chế tạo và sử dụng cáp quang vào mạng truyền dẫn tạo nên chất lượng thông tin rất cao. Sử dụng thủ tục hỏi đáp X25 để truyền đưa số liệu trên mạng cáp quang, câu trả lời hầu như lúc nào cũng nhận tốt nhận đủ. Vấn đề đặt ra ở đây là có cần dùng thủ tục hỏi và đáp mất rất nhiều thời gian của X25 để truyền đưa số liệu trên mạng cáp quang hay không? | ||
Và thế là công nghệ Frame Relay ra đời. Frame relay có thể chuyển nhận các khung lớn tới 4096 byte trong khi đó gói tiêu chuẩn của X25 khuyến cáo là 128 byte, không cần thời gian cho việc hỏi đáp, phát hiện lỗi và sữa lỗi ở lớp 3 nên Frame relay có khả năng chuyển tải nhanh hơn hàng chục lần so với X25 ở cùng tốc độ. Frame relay rất thích hợp cho truyền số liệu tốc độ cao và cho kết nối Lan-Lan và cả cho âm thanh, nhưng điều kiện tiên quyết để sử dụng công nghệ Frame relay là chất lượng mạng truyền dẫn phải cao. Frame Relay là một bộ tiêu chuẩn của WAN tạo ra một dịch vụ WAN hiệu quả hơn so với các liên kết điểm-điểm, trong khi vẫn cho phép các cặp của các router để gửi dữ liệu trực tiếp với nhau. Với kênh thuê riêng, mỗi dòng đòi hỏi một giao diện nối tiếp trên mỗi router và một mạch vật lý riêng biệt được xây dựng bởi công ty viễn thông. Frame Relay hỗ trợ khả năng gửi dữ liệu đến nhiều router từ xa qua một mạch WAN vật lý đơn lẻ. Ví dụ, một công ty với một site trung tâm và mười site từ xa sẽ đòi hỏi mười kênh thuê riêng để giao tiếp với site chính và mười giao diện cổng nối tiếp trên site của router trung tâm. Với Frame Relay, các sie chính có thể có một đường thuê riêng kết nối nó với dịch vụ Frame Relay, và một giao diện cổng duy nhất nối tiếp trên các bộ định tuyến tại site trung tâm, và vẫn có thể giao tiếp với nhau của mười router từ xa tại chỗ. 1. Cấu hình chung mạng Frame Relay: Hình 5-1: Mạng Frame Relay.Cơ sở để tạo được mạng Frame Relay là các thiết bị truy nhập mạng FRAD (Frame Relay Access Device), các thếit bị mạng FRND (Frame Relay Network Device), đường nối tiếp giữa các thiết bị và mạng trực Frame Realy. Thiết bị FRAD có thể là một LAN Bridge, LAN router… Thiết bị FRND có thể là các tổng đài chuyển mạch khung (frame) hay tổng đài chuyển mạch tế bào (Cell relay - chuyển tải tổng hợp các tế bào của các dịch vụ khác nhau như âm thanh, truyền liệu số, videp… mỗi tế bào độ dài 53 byte, đây là phương thức của công nghệ ATM). Đường kết nối giữa các thiết bị là giao diện chung của FRAD và FRND, giao thức người dùng và mạng hay gọi là F.R UNI (Frame Relay User Network Interface). Mạng trục Frame Relay cũng tương tự như các mạng viễn thông khác có nhiều tổng đài kết nối với nhau trên mạng truyền dẫn, theo thủ tục riêng của mình. Trong OSI 7 lớp, lớp 3 - lớp mạng, Frame relay không dùng thủ tục gì cả (transparent) . 2. Tổng quan về Frame Relay:Frame Relay cung cấp thêm nhiều tính năng mạng và lợi ích hơn so với các liên kết WAN đơn giản điểm-điểm, nhưng để làm được điều đó, các giao thức Frame Relay được chi tiết hơn. Ví dụ, các mạng Frame Relay là mạng multiaccess, có nghĩa là nhiều hơn hai thiết bị có thể gắn vào mạng, tương tự như mạng LAN. Không giống như các mạng LAN, bạn không thể gửi dữ liệu broadcast trên lớp liên kết Frame Relay. Vì vậy, Frame Relay được gọi là mạng nonbroadcast multiaccess (NBMA). Ngoài ra, bởi vì Frame Relay là multiaccess, nó đòi hỏi việc sử dụng một địa chỉ xác định mà router từ xa mỗi khung được đề cập. Hình 5-2 trình bày những cấu trúc liên kết cơ bản về vật lý và liên quan đến thuật ngữ trong một mạng Frame Relay. Hình 5-2: Các thành phần của mạng Frame Relay.Hình 5-2 cho thấy các thành phần cơ bản nhất của một mạng Frame Relay. Một kênh thuê riêng được cài đặt giữa các router và một chuyển đổi Frame Relay gần đó, liên kết này được gọi là các liên kết truy cập. Để đảm bảo rằng các liên kết đang hoạt động, các thiết bị bên ngoài mạng Frame Relay, được gọi là thiết bị đầu cuối dữ liệu (DTE), trao đổi tin nhắn thường xuyên với sự chuyển đổi Frame Relay. Các thông điệp keepalive, cùng với những thông điệp khác, được định nghĩa bởi các giao thức (LMI) Frame Relay giao diện quản lý. Các bộ định tuyến được coi là DTE, và các thiết bị chuyển mạch Frame Relay là truyền thông dữ liệu thiết bị (DCE). Trong khi đó hình 5-2 cho thấy các kết nối vật lý tại mỗi kết nối với mạng Frame Relay, hình 5-3 cho thấy sự hợp logic, hoặc ảo, kết nối liên kết các điểm đầu cuối với một mạch ảo (VC). Hình 5-3: Khái niệm về Frame Relay PVC.Con đường truyền thông logic giữa mỗi cặp DTEs là một VC. Bộ ba của đường song song trong hình đại diện cho một VC đơn. Thông thường, các nhà cung cấp dịch vụ preconfigures tất cả các chi tiết cần thiết của một VC; VC được xác định trước được gọi là các mạch ảo thường trực (PVC). Thiết bị định tuyến sử dụng kết nối dữ liệu liên kết định danh (DLCI) như là địa chỉ Frame Relay, nó xác định các VC trên đó các khung nên đi qua. Vì vậy, trong hình 5-3, khi R1 có nhu cầu để chuyển tiếp một gói tin đến R2, R1 đóng gói lớp 3 gói vào một header và trailer của Frame Relay và sau đó gửi các khung. Các Frame Relay tiêu đề bao gồm các DLCI chính xác để các nhà cung cấp Frame Relay chuyển mạch các khung một cách chính xác về phía R2. Bảng 4 liệt kê các thành phần thể hiện trong hình 5-2 và 5-3 và một số thuật ngữ liên quan. Bảng 4: Các khái niệm về Frame Relay. 1. Các tiêu chuẩn của Frame Relay: Bảng 5: Các giao thức Frame Relay. 2. Mạch ảo: Frame Relay cung cấp những lợi thế đáng kể so với cách sử dụng kênh thuê riêng point-to-point. Thuận lợi đầu tiên là có các mạch ảo. Hình 5-4, trong đó cho thấy một Frame Relay mạng điển hình với ba site. Hình 5-4: Mạng Frame Relay thông thường với ba site.Một mạch ảo định nghĩa như một đường logic giữa hai Frame Relay DTEs. Nó hoạt động như một mạch điểm-điểm, cung cấp khả năng gửi dữ liệu giữa hai thiết bị đầu cuối trên một mạng WAN. Không có mạch vật lý trực tiếp giữa hai thiết bị đầu cuối, vì vậy nó ảo. VC chia sẻ liên kết truy cập và mạng Frame Relay. Ví dụ, cả hai VC chấm dứt tại R1 sử dụng truy cập vào cùng liên kết. Trong thực tế, nhiều khách hàng chia sẻ cùng một mạng Frame Relay. Ban đầu, những người có mạng lưới kênh thuê riêng miễn cưỡng để di chuyển đến Frame Relay, bởi vì họ sẽ phải cạnh tranh với các khách hàng khác về công suất bên trong đám mây của nhà cung cấp dịch vụ. Để giải quyết những nỗi sợ hãi, Frame Relay được thiết kế với khái niệm về một tỷ lệ thông tin cam kết (CIR). Mỗi VC có CIR, đó là một đảm bảo bởi nhà cung cấp mà một VC cụ thể được ít nhất là bao nhiêu băng thông. Vì vậy, có thể di chuyển từ một đường kênh thuê riêng đến Frame Relay, nhận được một CIR ít nhất có nhiều băng thông như trước đây dùng với kênh thuê riêng. Thậm chí với một mạng lưới ba site, nó có lẽ ít tốn kém hơn để sử dụng Frame Relay hơn là sử dụng các liên kết điểm-điểm. Hãy tưởng tượng một tổ chức với 100 site cần đến bất kỳ kết nối nào. Làm thế nào nhiều kênh thuê riêng được yêu cầu! Và bên cạnh đó, các tổ chức sẽ cần 99 giao diện nối tiếp trên router nếu nó được sử dụng dạng kênh thuê riêng điểm-điểm. Với Frame Relay, một tổ chức có thể có 100 liên kết truy cập vào các chuyển mạch Frame Relay nội bộ, mỗi bộ định tuyến, và có 4.950 VC chạy qua chúng. Điều đó đòi hỏi rất nhiều liên kết thực tế ít hơn vật lý, và bạn sẽ chỉ cần một giao diện nối tiếp trên mỗi router! Cung cấp dịch vụ Frame Relay có thể xây dựng mạng lưới của họ về chi phíhiệu quả hơn so với kênh thuê riêng. Như mong đợi, làm cho khách hàng sử dụng mạng Frame Relay ít tốn kém hơn. Đối với nhiều kết nối WAN, Frame Relay đơn giản hơn, có hiệu quả hơn dùng kênh thuê riêng. Hai loại VC được phép, vĩnh cửu (PVC) và chuyển mạch (SVC). PVC được định nghĩa trước bởi nhà cung cấp; SVCs được tạo ra tự động. PVC đến nay phổ biến hơn trong hai loại. Khi các mạng Frame Relay được thiết kế, thiết kế không bao gồm một VC giữa mỗi cặp của các site. Hình 5-4 bao gồm PVC giữa mỗi cặp của các site, điều này được gọi là một Frame Relay toàn mạng. Khi không phải tất cả các cặp có một PVC trực tiếp, nó được gọi là một mạng cục bộ. Hình 5-5 cho thấy cùng một mạng như hình 5-4, nhưng lần này với một phần và chỉ có hai PVCs. Đây là điển hình khi R1 tại site chính và R2 và R3 đặt tại văn phòng từ xa mà ít khi cần giao tiếp trực tiếp. Hình 5-5: Mạng Frame Relay dười dạng partial-mesh.Các lưới một phần có một số lợi thế và bất lợi so với một lưới đầy đủ. Thuận lợi đầu tiên là rẻ hơn, bởi vì những chi phí nhà cung cấp cho mỗi VC. Nhược điểm là lưu lượng truy cập từ site của R2 vào site của R3 phải đến R1 đầu tiên và sau đó được chuyển tiếp. Nếu đó là một lượng nhỏ lưu lượng truy cập, sẽ là một giá trị rất nhỏ phải trả. Nếu đó là rất nhiều luồng dữ liệu, một mạng lưới toàn phần có giá trị hơn, bởi vì luồng dữ liệu đi giữa hai địa điểm từ xa sẽ phải truy cập vào liên kết chéo của R1 hai lần. Một khái niệm rào cản với PVCs là thường có một liên kết truy cập duy nhất trên nhiều dòng PVCs. Ví dụ, xem hình 5-5 từ quan điểm của R1. Server1 gửi một gói tin đến Larry. Nó đi qua Ethernet. R1 nhận và liên kết với bảng định tuyến của Larry, chỉ đường để gửi gói tin ra Serial0. Đóng gói các gói tin trong một header và trailer của Frame Relay sau đó gửi nó. PVC nào sẽ được sử dụng? Các Frame Relay switch nên gửi nó cho R2, nhưng tại sao? Để giải quyết vấn đề này, Frame Relay sử dụng một địa chỉ để phân biệt một PVC từ cái khác. Địa chỉ này được gọi là một kết nối dữ liệu liên kết định danh (DLCI). Tên này được mô tả: Địa chỉ này cho một lớp giao thức OSI lớp 2(liên kết dữ liệu), và nó xác định một VC, mà đôi khi được gọi là một kết nối ảo. Vì vậy, trong ví dụ này, R1 sử dụng các DLCI xác định các PVC đến R2, do đó, nhà cung cấp dịch vụ chuyển khung đến chính xác trên các PVC đến R2. Để gửi khung cho R3, R1 sử dụng các DLCI mà xác định các VC cho R3. CCNA: Giới thiệu về công nghệ Frame Relay – Phần 2
|
Đăng nhận xét