Phân tích xu hướng phát triển của Công Nghệ Truyền Hình (DVB-S3, DVB-T3)



I. PHÁT SÓNG QUẢNG BÁ.

I.1. Sơ lược về quảng bá số.

Việc truyền dữ liệu số trực tiếp đến thuê bao đã phát triển trên 15 năm, với ban đầu từ vệ tinh và sau đó vào năm 1990 là từ các máy phát mặt đất.

Các hệ thống này có cách cung cấp dịch vụ như các hệ thống truyền dẫn tương tự trước đó nhưng chúng có thể cho phép truyền nhiều kênh chương trình hơn trên cùng một băng thông, và cường độ tín hiệu yêu cầu cho máy thu cũng thấp hơn. Tuy nhiên, hiệu quả của các hệ thống này cũng không hoàn toàn tối ưu do ràng buộc về năng lực xử lý tín hiệu và chi phí cho thiết bị thu dân dụng.


Gần đây, thế hệ thứ hai của những hệ thống này cũng đã được phát triển nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng cho các hệ thống. Vẫn còn là câu hỏi để ngõ sau khi cải tiến về khả năng của hệ thống đã đạt đến giới hạn (về lý thuyết) hoặc có khả năng cải tiến tiếp tục cho thế hệ thứ ba.

Các giới hạn về mặt lý thuyết

Trong một kênh với một băng thông xác định, có một giới hạn biên trên về tốc độ dữ liệu không lỗi tối đa có thể được truyền trong kênh. Đây là một đặc tính phụ thuộc vào băng thông kênh và tỉ số tín hiệu/nhiễu (signal-to-noise ratio) ở phía thu và được gọi là giới hạn Shannon (được khám phá bởi Claude Shannon). Ví dụ, với tỉ số tín hiệu/nhiễu là 0dB (công suất tính hiệu và nhiễu bằng nhau) thì tốc độ dữ liệu tối đa có thể truyền được không xảy ra lỗi là 1bit/s trong mỗi Hertz của băng thông. Giới hạn này chỉ đúng với một kênh lý tưởng với định nghĩa chặt chẽ về băng thông, và ảnh hưởng chỉ bởi nhiễu trắng AWGN (Additive White Gaussian Noise). Các kênh vệ tinh được xấp xỉ tương ứng với một kênh AWGN, nhưng kênh mặt đất thì không xấp xỉ như thế được (nhiễu ảnh hưởng từ kênh mặt đất phức tạp hơn).

Các hệ thống vệ tinh phân phối tốc độ dữ liệu kém hơn tốc độ tối đa về mặt lý thuyết cho phép trong một băng thông do hai lý do chính. Thứ nhất, các hệ thống mã hóa và điều chế đạt một hiệu suất nhất định (theo khoảng cách) từ giới hạn Shannon. Thứ hai, tốc độ symbol của dữ liệu truyền sẽ thấp hơn băng thông lý tưởng cho phép.


Trong trường hợp của các hệ thống mặt đất, việc định nghĩa những giới hạn về mặt lý thuyết là khó hơn do sự phụ thuộc rất lớn vào đặc tính kênh truyền.

I.2. Các chuẩn quảng bá thông tin vệ tinh.

I.2.1. DVB-S.

DVB-S là chuẩn quảng bá vệ tinh đầu tiên dùng điều chế QPSK và sự kết hợp giữa mã chập và mã Reed Solomon cho việc sửa lỗi. Hệ thống cũng cho phép các tùy chọn về tốc độ bit của kênh (tương ứng với khả năng kháng nhiễu của tín hiệu) dựa vào tỉ lệ của mã chập (tỉ lệ của tổng dung lượng dữ liệu dùng cho sửa lỗi).

Ví dụ, một bộ phát đáp vệ tinh 36MHz điển hình hoạt động ở EIRP là 51dBW có thể dùng:

• Tốc độ symbol là 27.5Mbaud

• Điều chế QPSK

• Tỉ lệ mã FEC là 2/3


Việc chọn lựa này sẽ cho phép truyền một tốc độ dữ liệu hữu dụng là 33.8Mb/s.

Ngay sau khi phát triển DVB-S, các đặc tính kỹ thuật của DVB-SNG cũng đã được phát triển. Chuẩn này được định hướng dùng cho các ứng dụng chuyên dụng như Satellite News Gathering và cho phép truyền tốc độ dữ liệu cao hơn trong một băng thông xác định nhưng yêu cầu các đĩa thu sóng phải lớn hơn nhiều. Điều này đạt được bằng cách sử dụng các điều chế cấp cao hơn (8PSK và 16QAM) và được xem như một mở rộng của chuẩn DVB-S.

Việc mã hóa và điều chế được theo chuẩn DVB-S được thực thi ở kém nhất là 3dB dưới giới hạn Shannon, và sẽ lớn hơn ở các tỉ lệ mã cao hơn. Ngoài ra, có những ảnh hưởng không mong muốn khác do phổ tần thực tế của tín hiệu truyền không vuông (dạng lý tưởng) mà theo dạng cong với một hệ số cosine roll-off, nên băng thông chiếm bởi tín hiệu lớn hơn nhiều so với mức tối thiểu về mặt lý thuyết. 

I.2.2. DVB-S2.

Ngay sau khi phát triển DVB-S, có nhiều khám phá mới về mã sửa lỗi mà một trong đó đó là mã Turbo. Mã này dựa vào việc ghép của hai mã chập tương đối đơn giản với nhau và dùng mức interleaver lớn, và hiệu suất yêu cầu lớn hơn 2dB so với DVB-S, nghĩa là trong khoảng 1dB của giới hạn Shannon. Các thực nghiệm ứng dụng của mã này ban đầu gặp một số vấn đề ở các trường hợp tỉ lệ lỗi bit với phần dư rất thấp (dùng trong truyền hình số), dầu vậy những vấn đề này cũng đã được khắc phục sau đó. 

Mã Turbo đã mở lối cho việc phát triển mã sửa sai nói chung, và theo đó một lớp mã khác đã được đề xuất là mã LDPC (Low Density Parity Check) hỗ trợ một số khả năng hữu dụng cho quá trình cải tiến. Mã LDPC đã được khám phá vào năm 1960 nhưng đã bị lãng quên, có lẽ theo thời gian công suất xử lý và bộ nhớ cần để thực thi mã dài đã đạt hiệu quả tốt nên đã khắc phục được các hạn chế khi sử dụng.

Vào năm 2003, DVB đã khởi động đề án thế hệ thứ hai cho mã hóa và điều chế số dùng cho vệ tinh là DVB-S2. DVB-S2 đã thay đổi điều chế 16QAM dùng bởi DVB-DSNG bằng cách dùng chòm sao đa mức vòng (một minh họa tương tự là chòm sao 32 trạng thái) và dùng mã sửa lỗi LDPC. Nó cũng giảm các bộ lọc cosine roll-off từ 35% đến 20%. Tất cả những thay đổi này giúp cải thiện thêm khoảng 35% dung lượng dữ liệu hoặc hiệu suất tỉ lệ tín hiệu/nhiễu tăng thêm 2.4dB so với các hệ thống trước đây.

Ví dụ, một bộ phát đáp 36MHz điển hình hoạt động ở EIRP là 51dBW có thể dùng:

• Tốc độ symbol là 30.9 Mbaud

• Điều chế QPSK

• Tỉ lệ mã FEC ¾


Sự kết hợp này cho tốc độ dữ liệu hữu dụng là 46Mb/s, nghĩa là dung lượng tăng 36% so với DVB-S với cùng yêu cầu về C/N.

I.2.3. DVB-S3?

Tổ chức DVB đã tuyên bố DVB-S2 đã quá tốt và DVB-S3 sẽ không được phát triển trong thời gian dài. Thực tế, sẽ xuất hiện các yêu cầu cho hệ thống với các thông số vượt qua khả năng hỗ trợ của DVB-S2. Ví dụ, yêu cầu về khả năng phân phối các tốc độ bit cao hơn trong một kênh bù lại đĩa thu lớn hơn hoặc công suất vệ tinh cao hơn, hoặc khả năng thu với anten nhỏ nhưng bù lại tốc độ bit thấp hơn… 

Tuy nhiên, vấn đề chính vẫn là cải tiến hiệu quả so với DVB-S2. Tùy thuộc mode hoạt động, cơ chế mã hóa và điều chế tương lai có thể hỗ trợ lại một mức dB đặc biệt hoặc gia tăng về hiệu suất. Cơ chế sửa lỗi DVB-S2 hiện nay dùng kích thước block là 64Kbit. Trong nghiên cứu, các bộ mã với kích thước block hàng triệu bit đã được khảo sát và cũng đạt được hiệu quả nhất định về mức dB so với giới hạn về lý thuyết. Mặc dù, yêu cầu về bộ nhớ lớn sử dụng cho một mã dài không phải là hạn chế về mặt kỹ thuật hiện nay, nhưng công suất xử lý sẽ gia tăng để có thể giải mã được các mã dài. Hơn nữa, thời gian trễ vốn có trong quá trình mã hóa cũng trở nên là vấn đề lớn đối với việc sử dụng mã dài trong việc sửa lỗi.

Hệ thống DVB-S ban đầu dùng bộ lọc Nyquist với băng thông lớn hơn 35% so với bộ lọc chữ nhật lý tưởng cho cùng một tốc độ symbol. Hiện nay, đường truyền DVB-S2 dùng điều chế 8PSK chỉ dùng băng thông lớn hơn ở mức 25%. Nếu thông số này có thể giảm xuống gần zero và kết hợp với các cải tiến đạt đến ngưỡng về mã hóa và điều chế, DVB-S3 có thể đạt hiệu quả cao hơn DVB-S2 như DVB-S2 đã đạt được so với DVB-S. Một giải pháp để điều này có thể đạt được là dùng các hệ thống đa sóng mang (ví dụ: OFDM), tối ưu hiệu quả băng thông so với hoạt động của các kênh multipath (nghĩa là không dùng khoảng bảo vệ). Tuy nhiên, thách thức có thể xảy ra là điều chế mới sẽ không tương thích với các bộ phát đáp vệ tinh dùng để phát DTH (Direct-to-Home) hiện có, nhưng điều này có thể giải quyết được.

Theo thời gian, các kỹ thuật mới có thể được phát minh để khắc phục những vấn đề còn chưa đạt được trong hệ thống truyền. Tuy nhiên, DVB dường như đúng khi cho rằng việc cải tiến DVB-S2 là công việc của tương lai.

I.3. Quảng bá mặt đất.

I.3.1. DVB-T.

DVB-T được phát triển vào nửa cuối năm 1990, và được hình thành dựa trên những nghiên cứu của một số phòng thí nghiệm ở Châu Âu từ thập kỷ trước đó. Giống như hệ thống DAB (Digital Audio Broadcasting), DVB cũng sử dụng cơ chế điều chế đa sóng mang COFDM (Coded Orthogonal Frequency Division Multiplexing). DVB-T hỗ trợ rất tốt với môi trường thu gồm nhiều sóng phản xạ (multipath), có khả năng kháng xen nhiễu từ các hệ thống truyền hình tương tự. Hệ thống định nghĩa 2 mode điều chế là 2K hoặc 8K tương ứng với số sóng mang cho mỗi mode là 1,705 hoặc 6,817 sóng mang. Ngoài ra, DVB-T cũng đạt hiệu quả tốt hơn với thu sóng di động và hỗ trợ thiết lập mạng đơn tần SFN.

DVB-T dùng cơ chế sửa lỗi như DVB-S, điều này có nghĩa các máy thu thế hệ thứ nhất có thể sử dụng các vi mạch đã được phát triển cho các máy thu vệ tinh, đây cũng là ưu điểm quan trọng để các thiết bị theo chuẩn DVB-T phát triển nhanh chỉ trong một thời gian ngắn sau khi phiên bản cuối về các đặc tính kỹ thuật DVB-T được công bố. 

Trong mỗi sóng mang, chòm sao điều chế được tùy chọn đến 64QAM, đồng nghĩa với hệ thống có thể gia tăng đáng kể dung lượng dữ liệu trên một đơn vị băng thông so với DVB-S, bù lại khả năng kháng nhiễu của tín hiệu lại giảm đi. Ngoài ra, DVB-T cũng chèn thêm các thông tin khác cũng góp phần làm giảm dung lượng hữu dụng được truyền như các thông tin về đồng bộ, khoảng bảo vệ, pilot. Dung lượng cấp phát để truyền thông tin pilot là đáng kể so với yêu cầu tối thiểu về mặt lý thuyết, bù lại điều này lại góp phần quan trọng trong việc đơn giản hơn thiết kế trong máy thu

Một điểm yếu của DVB-T là khả năng kháng nhiễu xung. Điều này có thể khắc phục bằng cách cộng thêm thời gian interleave, nhưng thời gian này lại phụ thuộc vào bộ nhớ gắn trong máy thu dùng cho interleave.

Một ví dụ cho tập thông số hiện đang sử dụng với Multiplex A ở Anh là:

• Điều chế 64QAM

• Khoảng bảo vệ 1/32

• Tỉ lệ mã FEC 2/3

• Mode 2K


Tốc độ dữ liệu truyền tương ứng cho tập thông số này là 24.1 Mb/s.

I.3.2. DVB-T2.

DVB-T2 là chuẩn kỹ thuật thế hệ thứ hai của hệ thống truyền hình số mặt đất. Giống như DVB-T, hệ thống này dùng điều chế OFDM nhưng hỗ trợ mode điều chế lên đến 32K. Dù sử dụng nhiều sóng mang hơn nhưng hệ thống vẫn chấp nhận được các echo xảy ra có độ dài như đã được chấp nhận trong DVB-T, tuy nhiên khoảng bảo vệ sẽ ngắn hơn và điều này cũng giúp cho dung lượng dữ liệu truyền dẫn đạt hiệu quả cải tiến cao. Mặt khác, thông tin pilot cũng ít hơn và gần với mức tối thiểu về mặt lý thuyết.

DVB-T2 cho phép giản đồ chòm sao lên đến 256QAM trên mỗi sóng mang, do đó dung lượng dữ liệu truyền sẽ có mức tăng khá lớn trong cùng băng thông kênh. DVB-T2 cũng như DVB-T kế thừa cơ chế sửa lỗi từ các hệ thống vệ tinh tương ứng, cụ thể trường hợp của DVB-T2 là kế thừa co chế sửa lỗi của DVB-S2. Mặc dù mã LDPC rất tốt với kênh AWGN (trong đường truyền vệ tinh), nhưng mã này lại không tốt khi ứng dụng trong COFDM đối với kênh truyền chịu tác động lớn của các kênh sóng phản xạ (multipath) của đường truyền mặt đất. Để khắc phục phần nào vấn đề này, DVB-T2 định nghĩa và sử dụng các chòm sao xoay (rotated constellation). Ngoài ra, DVB-T2 cũng giới thiệu kỹ thuật gọi là mã Alamouti, là một ví dụ của đường truyền MIMO (Multiple Input Multiple Output).

Hiệu quả thực tế của DVB-T2 hiện vẫn đang được khảo sát nhưng với kênh truyền gần thẳng (near line-of-sign) như truyền đến các anten đặt trên mái nhà thì hiệu quả cải tiến được kỳ vọng sẽ tương tự như DVB-S2 so với DVB-S. Đối với kênh truyền có sự có mặt của các kênh phản xạ hoặc xen nhiễu thì hiệu quả cải tiến sẽ khó dự đoán hơn và sẽ cần có các thử nghiệm từ thực tế.

Một khảo sát của BBC với kênh truyền tương đương kênh Gauss và các thông số DVB-T2 như sau:

• Điều chế 256QAM

• Khoảng bảo vệ 1/128

• Tỉ kệ mã FEC LDPC 3/5

• Mode 32K


Dung lượng dữ liệu truyền đạt được với các thông số này là 39.5Mb/s, nghĩa là dung lượng lớn hơn 50% so với Multipex A của Anh dùng DVB-T (đánh giá dựa trên kênh truyền tương đương kênh Gauss).

I.3.3. DVB-T3?

DVB-T2 đã đạt được tốc độ bit và hiệu quả cao chỉ trong một giai đoạn ngắn cải tiến. Tuy nhiên, đặc tính của kênh truyền mặt đất khá khác biệt với đặc tính của kênh truyền Gauss, nên việc dự đoán chính xác mức độ cải tiến cần có một thời gian đánh giá dài. Mặt khác, một kỹ thuật có khả năng dùng cho cả thu sóng cố định và di động đã không được khảo sát nhiều trong họ các chuẩn DVB-T đó là MIMO (Multiple Input Multiple Output). 

MIMO thích hợp với việc dùng hai hoặc nhiều anten cho việc truyền và thu sóng. Một giải pháp đơn giản của hệ thống MIMO hai anten là sử dụng một anten dùng theo phân cực dọc và một anten dùng phân cực ngang. Cả máy phát và máy thu đều cần có các anten phân cực này để phát sóng và thu sóng. Khi thu sóng, dù máy thu phải xử lý tín hiệu để tách riêng hai đường truyền thì vẫn có những thành phần của tín hiệu xáo trộn với nhau. Tuy nhiên, với kỹ thuật xử lý tín hiệu hiện nay thì điều này không khó để khắc phục. Kỹ thuật này rất mạnh và có thể gia tăng gần gấp đôi dung lượng dữ liệu trong một băng thông xác định (hoặc sẽ cải tiến lớn về sức mạnh của tín hiệu bằng cách cho phép tỉ lệ bit sửa lỗi lớn hơn trong mã sửa lỗi). Thách thức chính cần xem xét ở đây là cần có sự thay đổi đáng kể về hạ tầng truyền dẫn. Với hiện trạng hiện có, việc sử dụng anten đẳng hướng để có thể hoạt động tốt cho cả hai phân cực là rất khó và tốn chi phí.

Một khả năng khả thi khi ứng dụng MIMO là sử dụng nhiều anten ở cả máy phát và máy thu. Điều này sẽ rất phù hợp với các tầng số cao (ví dụ lớn hơn 5GHz) vì cấu trúc anten khi đó không quá lớn. Nhìn chung, kỹ thuật MIMO có thể gia tăng tốc độ dữ liệu cho băng thông kênh và là một hướng cải tiến quan trọng đối với chuẩn DVB-T2 hiện đang được triển khai tại một số khu vực.

I.4. Quảng bá dùng cáp.

Các hệ thống quảng bá DVB cũng đã công bố chuẩn thế hệ thứ hai cho môi trường truyền cáp là DVB-C2 vào tháng 3/2009. Nếu đặc tính kỹ thuật DVB-C ban đầu là một hệ thống điều chế đơn sóng mang với chòm sao cao nhất là 256QAM thì DVB-C2 dùng COFDM với chòm sao điều chế cao nhất là 4096QAM trên mỗi sóng mang. Cơ chế điều chế COFDM không nhạy với echo gây ra từ mạng cáp đồng trục trong nhà và cũng không nhạy với nhiễu xung.


DVB-C2 cho phép cải thiện đến 30% hiệu quả sử dụng phổ trong cùng điều kiện so với chuẩn DVB-C (đang sử dụng), và có khả năng gia tăng lên 60% đối với mạng HFC tối ưu sau khi chấm dứt phát tín hiệu tương tự. Sơ đồ sau đây minh họa khả năng cải tiến của DVB-C2 so với DVB-C (khảo sát trên một số tùy chọn điều chế có trong DVB-C2). Có thể thấy trong hình vẽ này hiệu quả của DVB-C2 tiệm cận với giới hạn Shannon.

II. KẾT LUẬN.

Công nghệ truyền hình gồm nhiều lĩnh vực từ biên tập, sản xuất chương trình, lưu trữ, phân phối nội dung,… đến truyền dẫn phát sóng, máy thu là tổng hợp của nhiều qui trình kỹ thuật để có thể mang một chương trình truyền hình đến với người xem. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ một số hướng phát triển về kỹ thuật được chọn để giới thiệu. Đây cũng là những kỹ thuật dự đoán sẽ được chú ý trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. Với mỗi kỹ thuật cần có những điểm “cân nhắc” sau:

Với kỹ thuật 3D: các phương pháp xem truyền hình 3D bằng kính thực ra vẫn chưa đáp ứng được mong muốn của người xem, hướng phát triển phải là các giải pháp xem không cần kiếng. Tuy nhiên, việc hiển thị auto-stereoscope dựa trên kỹ thuật thấu kính hạt đậu hoặc rào chắn thị sai vẫn chưa đủ tốt cho người xem tại nhà và vẫn còn nhiều nghi ngại về khả năng phát triển tiếp tục của kỹ thuật này (khi Philip đi tiên phong về kỹ thuật này nhưng hiện đã ngưng các nghiên cứu phát triển). Một số giải pháp hiển thị khác cũng đã được đề xuất (như: light field based display device) nhưng hiện nay chi phí cho các giải pháp này là quá cao đối với thị trường dân dụng. Về phát sóng quảng bá 3D, cần có một khoảng thời gian để cho các thiết bị STB dân dụng phổ biến trên thị trường và được dự đoán vào khoảng năm 2020 việc phát sóng quảng bá 3D sẽ trở nên phổ cập. 

Với UHDTV: Từ 1995 đến 2005 truyền hình số SDTV được phân phối trên các đường truyền mặt đất, cáp, vệ tinh được cung cấp cho các thuê bao. Từ 2005 đến nay HDTV đã có những thành công trong việc đáp ứng yêu cầu về chất lượng cho khách hàng, và các khảo sát cho rằng HDTV sẽ còn thỏa mãn được yêu cầu khách hàng đến năm 2015. Theo suy luận logic, UHDTV 4K×2K sẽ được quan tâm từ 2015 đến 2025. Tuy nhiên, điều này cần được kiểm chứng theo thời gian vì hiện giờ khách hàng đang hài lòng với chất lượng HDTV, và khách hàng đang hướng đến trải nghiệm với truyền hình 3D. Mặt khác, các kỹ thuật lưu trữ, xử lý media hiện vẫn chưa đủ tốc độ cho việc triển khai UHDTV. Hơn nữa, với dung lượng lớn của các gói media thì tốc bộ bit cần để phân phối media thông qua các mạng có dây và không dây với chất lượng UHDTV vẫn chưa sẵn sàng.

Về cải tiến khả năng hiển thị: việc cải tiến khả năng hiển thị phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thiết bị ghi hình, thiết bị hiển thị. Tuy nhiên, nếu UHDTV được triển khai thì các cải tiến hiển thị giới thiệu ở trên sẽ phải được phát triển đồng thời. 

Về lưu trữ: dung lượng của ổ cứng, đĩa quang và bộ nhớ flash liên tục tăng trong khi giá vẫn tiếp tục giảm. Một số quan sát cho thấy tốc độ việc cải tiến nhanh nhất đối với bộ nhớ bán dẫn, theo sau lần lược là đĩa quang và đĩa cứng. Các cải tiến này sẽ phải đủ nhanh, đủ dung lượng hướng đến phục vụ cho các chương trình UHDTV.

Về mạng IP băng rộng: có một số lượng lớn các kỹ thuật khác nhau để phục vụ cho việc truy cập mạng băng rộng có dây và không dây (cố định hoặc di động). Tốc độ bit nhanh nhất hiện đạt được dựa trên các kỹ thuật băng rộng có dây đã đủ để phục vụ cho HDTV thậm chí là UHDTV. Các mạng IP băng rộng có dây còn được kỳ vọng sẽ có các cải tiến quan trọng và đóng vai trò của mạng quảng bá trong việc phân phối nội dung media, gồm cả phân phối nội dung cho riêng từng khách hàng như dịch vụ VOD. Các kỹ thuật không dây có tốc độ nhanh nhất hiện nay có khả năng phân phối HDTV nhưng chỉ trong những trường hợp hạn chế (nghĩa là chỉ có thể phục vụ cho một ít khách hàng khi các khách hàng khác trong cell không dùng dịch vụ) mà điều này thì không đạt yêu cầu về tính kinh tế. Mặc dù, các kỹ thuật sẽ được cải tiến theo thời gian, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề phải khắc phục để có thể cung cấp được dịch vụ HDTV (chưa kể UHDTV) và đặc biệt là chi phí phải khả dĩ chấp nhận được đối với khách hàng. Có lẽ, việc cung cấp các dịch vụ này trên mạng không dây chỉ được sử dụng trong những trường hợp thay thế khi mạng có dây khó triển khai (như vùng nông thôn).

Về mạng quảng bá: Đã có nhiều cải tiến đáng kể trong thế hệ thứ hai so với thế hệ thứ nhất của các chuẩn DVB trong ba môi trường truyền dẫn. Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều khả năng các chuẩn thế hệ này sẽ được cải tiến trong thời gian tới. Bảng sau là một số thông số cải tiến được kỳ vọng sẽ đạt được tính đến năm 2020 của hai môi trường truyền dẫn vệ tinh và mặt đất.


Tóm lại, việc phát triển của mỗi kỹ thuật không độc lập mà chịu ảnh hưởng của những kỹ thuật liên quan. Ngược lại, sự phát triển vượt bậc của mỗi kỹ thuật cũng là tác nhân thúc đẩy các kỹ thuật khác cải tiến để tham gia vào chuỗi qui trình. 

Tài liệu tham khảo:

[1]. Ken McCann, “Beyond HDTV: Implications for Digital Delivery”, An Independent Report by ZetaCast Ltd Commissioned by Ofcom, 7/2009.

[2]. EN 302 307 V1.1.2: “Second generation framing structure, channel coding and modulation.

systems for Broadcasting, Interactive Services, News Gathering and other broadband satellite applications” (DVB-S2).

[3]. DVB BlueBook A122 Rev.1: “Frame structure channel coding and modulation for a second generation digital 

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn